1. Khái quát về đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia
Hiện nay, Việt Nam và Campuchia có chung đường biên giới trên đất liền dài khoảng 1.137km[1], điểm khởi đầu ở vị trí là giao điểm đường biên giới 3 nước Việt Nam – Campuchia – Lào, điểm kết thúc ở vị trí cuối cùng của đường biên giới đất liền trên bờ vịnh Thái Lan tiếp giáp giữa tỉnh Kiên Giang (Việt Nam) và tỉnh Kampot (Campuchia). Đường biên giới này đi qua địa giới hành chính 10 tỉnh của Việt Nam (Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang) và 09 tỉnh của Campuchia (Rattanakiri, Mondulkiri, Kratié, Tboung Khmum, Svay Rieng, Prey Veng, Kandal, Takeo, Kampot).
Một số nét cơ bản về chiều dài đường biên giới, mốc quốc giới[2] theo Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 (Hiệp ước hoạch định năm 1985), Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 (Hiệp ước bổ sung năm 2005) đi qua địa bàn các tỉnh biên giới phía Việt Nam cụ thể như sau[3]:
- Tỉnh Kon Tum (có 2 huyện với 6 xã biên giới) tiếp giáp với tỉnh Rattanakiri: Đường biên giới dài khoảng 95 km, được giao cắm tổng số 29 cột mốc chính tại 24 vị trí mốc (từ mốc quốc giới số 1 đến cột mốc số 24).
- Tỉnh Gia Lai (có 3 huyện với 7 xã biên giới) tiếp giáp với tỉnh Rattanakiri: Đường biên giới dài khoảng 90 km, được giao cắm tổng số 20 cột mốc chính tại 16 vị trí mốc (từ mốc quốc giới số 25 đến cột mốc số 40).
- Tỉnh Đắk Lắk (có 2 huyện với 4 xã biên giới) tiếp giáp với tỉnh Mondulkiri: Đường biên giới dài khoảng 73 km, được giao cắm tổng số 11 cột mốc chính tại 7 vị trí mốc (từ mốc quốc giới số 41 đến cột mốc số 47).
- Tỉnh Đắk Nông (có 4 huyện, 7 xã biên giới) tiếp giáp với tỉnh Mondulkiri: Đường biên giới dài khoảng 120 km, được giao cắm tổng số 24 cột mốc chính tại 13 vị trí mốc (từ mốc quốc giới số 48 đến cột mốc số 60).
- Tỉnh Bình Phước (có 3 huyện, 15 xã biên giới) tiếp giáp với 3 tỉnh của Campuchia (Mondulkiri, Kratié, Tboung Khmum): Đường biên giới dài khoảng 210 km, được giao cắm tổng số 29 cột mốc chính tại 19 vị trí mốc từ số 61 đến số 79 (đoạn biên giới giáp với tỉnh Mondulkiri có 8 cột mốc tại 5 vị trí từ mốc số 61 đến 65; giáp với tỉnh Kratié có 11 cột mốc tại 8 vị trí từ cột mốc số 66 đến cột mốc số 73; giáp với tỉnh Tboung Khmum có 10 cột mốc tại 6 vị trí từ cột mốc số 74 đến cột mốc số 79).
- Tỉnh Tây Ninh (có 5 huyện, 20 xã biên giới) tiếp giáp với 3 tỉnh của Campuchia (Tboung Khmum, Prey Veng, Svay Rieng): Đường biên giới dài khoảng 220 km, được giao cắm tổng số 108 cột mốc chính tại 100 vị trí từ cột mốc số 80 đến cột mốc số 179 (đoạn biên giới giáp với tỉnh Tboung Khmum có 50 cột mốc tại 50 vị trí từ cột mốc số 80 đến cột mốc số 129; giáp với tỉnh Prey Veng có 5 cột mốc tại 3 vị trí từ cột mốc số 130 đến cột mốc số 132; giáp với tỉnh Svay Rieng có 53 mốc tại 47 vị trí từ cột mốc số 133 đến cột mốc số 179).
- Tỉnh Long An (có 5 huyện, 1 thị xã, 20 xã biên giới) tiếp giáp với tỉnh Svay Rieng: Đường biên giới dài khoảng 136 km, được giao cắm tổng số 57 cột mốc chính tại 51 vị trí mốc (từ mốc quốc giới số 180 đến cột mốc số 230).
- Tỉnh Đồng Tháp (có 2 huyện, 1 thị xã, 8 xã biên giới) tiếp giáp với tỉnh Prey Veng: Đường biên giới dài khoảng 49 km, được giao cắm tổng số 16 cột mốc chính tại 10 vị trí mốc (từ mốc quốc giới số 231 đến cột mốc số 240).
- Tỉnh An Giang (có 3 huyện, 1 thành phố, 1 thị xã, 18 xã phường biên giới) tiếp giáp với 2 tỉnh của Campuchia (Kandal, Takeo): Đường biên giới dài khoảng 96 km, được giao cắm tổng số 49 cột mốc chính tại 46 vị trí cột mốc số 241 đến cột mốc số 286 (đoạn biên giới giáp với tỉnh Kandal có 16 cột mốc tại 13 vị trí từ cột mốc số 241 đến cột mốc số 253; giáp với tỉnh Takeo có 33 cột mốc tại 33 vị trí từ cột mốc số 254 đến cột mốc 286).
- Tỉnh Kiên Giang (có 1 huyện, 1 thị xã, 7 xã phường biên giới) tiếp giáp với 2 tỉnh của Campuchia (Takeo và Kampot): Đường biên giới dài khoảng 48 km, được giao cắm tổng số 28 cột mốc chính tại 28 vị trí từ cột mốc số 287 đến cột mốc số 314 (Đoạn biên giới giáp với tỉnh Takeo có 4 cột mốc tại 4 vị trí từ cột mốc số 287 đến cột mốc số 290; giáp với tỉnh Kampot có 24 cột mốc tại 24 vị trí từ cột mốc số 291 đến cột mốc số 314).
Ngoài ra, hai Bên thống nhất bổ sung thêm 1069 vị trí/1512 cột mốc phụ, 221 vị trí/221 cọc dấu[4] để làm rõ hơn hướng đi của đường biên giới trên thực địa, tạo điều kiện cho người dân biên giới cũng như lực lượng chức năng hai bên dễ nhận biết, quản lý đường biên, mốc giới.
2. Địa hình khu vực biên giới
Nhìn chung, đường biên giới trên đất liền Việt Nam – Campuchia đi qua hai dạng địa hình đặc trưng là rừng núi và đồng bằng. Đoạn biên giới thuộc các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước và một phần phía Bắc tỉnh Tây Ninh đi qua địa hình rừng núi, độ cao trung bình từ 100m đến 1.400m, một số đoạn biên giới đi theo đường sống núi hoặc theo sông suối, một số đoạn biên giới là các đoạn thẳng dài hàng chục km cắt qua các dạng địa hình bất kỳ (đồi núi, rừng, sông suối…). Đoạn biên giới thuộc phía Nam tỉnh Tây Ninh và các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang đi qua địa hình đồng bằng khá bằng phẳng, có đoạn đi theo sông rạch, qua khu vực đồng ruộng, sình lầy, cũng có một số đoạn đường biên giới theo đoạn thẳng.
3. Hệ thống sông suối biên giới
Theo Hiệp ước hoạch định năm 1985, các đoạn biên giới theo sông suối được hai bên thống nhất hoạch định cơ bản giữ nguyên như đường biên giới theo sông suối đã thể hiện trên bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 do Sở Địa dư Đông Dương xuất bản được hai bên thống nhất lựa chọn đính kèm Hiệp ước nguyên tắc năm 1983. Theo đó, trong tổng số khoảng 1.137km chiều dài đường biên giới trên toàn tuyến, có hơn 500 km đường biên giới đi theo 28 đoạn sông, suối.
Hiện nay, do tác động của thiên nhiên, có một vài sông rạch biên giới tuy được thể hiện trên bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 nhưng không còn tồn tại hoặc tồn tại không rõ ràng trên thực địa (rạch Đìa Gai, rạch không tên tại cù lao Khánh Hòa thuộc An Giang). Sông suối biên giới ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước và Tây Ninh đi qua các dạng địa hình rừng núi, thổ nhưỡng tương đối bền vững, nên dòng chảy và hai bên bờ khá ổn định. Ngược lại, sông rạch biên giới ở các tỉnh Long An, Đồng Tháp và An Giang đi qua vùng đồng bằng hàng năm bị ngập lụt theo mùa nên thường bị phù sa bồi lắng làm thay đổi lòng sông và lưu lượng dòng chảy, có một số nơi hai bờ bị sạt lở ảnh hưởng rất lớn đến vị trị của đường biên giới như hợp lưu sông Tam Ly – Cái Cỏ - Sở Hạ, sông Hậu và hợp lưu sông Hậu – rạch Bình Di.
Trừ một số sông biên giới tương đối lớn và dài (như sông Nậm Sa Thầy, Se San, rạch Cái Bác, Sở Thượng, sông Hậu), còn lại đa số là các suối, rạch biên giới nhỏ và hẹp. Các sông, rạch biên giới từ phía Nam tỉnh Tây Ninh đến An Giang có giá trị sử dụng tương đối cao về giao thông, thủy lợi, thủy sản, nhưng có điểm yếu là không ổn định, dễ bị xói lở, thay đổi dòng chảy, thậm chí thay đổi hình dáng. Dân cư hai bên đường biên giới tập trung ở khu vực này tương đối đông. Sông suối biên giới từ phía Bắc tỉnh Tây Ninh đến Kon Tum ít bị thay đổi dòng hơn, một số sông có tiềm năng thủy điện.
Các cồn, bãi trên sông suối biên giới không nhiều, tập trung ở sông suối biên giới thuộc các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Tây Ninh. Một số cồn, bãi có diện tích tương đối lớn và có giá trị kinh tế; còn lại chủ yếu là bãi đá lúc chìm lúc nổi theo con nước, diện tích mỗi bãi chỉ khoảng vài chục đến vài trăm mét vuông, giá trị kinh tế thấp. Sông rạch biên giới thuộc các tỉnh Tây Nam Bộ (Long An, Đồng Tháp, An Giang) hầu như có rất ít cồn bãi nổi.
4. Đặc điểm khí hậu, thời tiết khu vực biên giới
Khu vực biên giới Việt Nam – Campuchia thuộc vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, độ ẩm cao. Khí hậu có hai mùa rõ rệt, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4 – 5 đến tháng 9 – 10 (dương lịch) tập trung tới 90% lượng mưa cả năm; mùa khô thường bắt đầu từ tháng 10 – 11 đến tháng 3 – 4 năm sau, lượng mưa chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng nước mưa cả năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 – 27oC, biên độ nhiệt độ hằng năm thường không quá 4 - 5 oC, một số điểm đáng lưu ý là do ở gần xích đạo nên một số địa phương đã có dạng diễn biến của chế độ nhiệt tương tự như chế độ nhiệt của các địa phương ở vùng xích đạo.
5. Hệ thống giao thông và dân cư khu vực biên giới
Trong khu vực biên giới, ở các tỉnh miền núi, hệ thống đường sá chủ yếu là đường mòn, đi lại khó khăn, nhất là ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước. Các tỉnh ở vùng đồng bằng có hệ thống đường sá tốt hơn và còn có thêm hệ thống kênh, rạch chằng chịt nên việc lưu thông, đi lại thuận lợi hơn.
Ở các tỉnh biên giới phía Việt Nam hiện nay có các loại đường bộ: Đường ASEAN, đường liên quốc gia, quốc lộ, tỉnh lộ, đường sông, đường tuần tra biên giới và nhiều đường mòn tạo nhiều thuận lợi cho việc qua lại trong nội địa nói chung và đi qua biên giới nói riêng. Một số đường bộ từ phía Việt Nam cắt qua biên giới sang Campuchia như: Quốc lộ 19 (Gia Lai), Quốc lộ 14 (Đắk Lắk), Quốc lộ 13 (Bình Phước), Quốc lộ 22A và 22B (Tây Ninh), Quốc lộ 91 (An Giang), Quốc lộ 80 (Kiên Giang).
Dân cư ở khu vực biên giới (phía Việt Nam) phân bố không đều. Mật độ dân cư ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước và phía Bắc tỉnh Tây Ninh khá thưa thớt, nhất là ở các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk và Đắk Nông nhiều địa bàn kéo dài dọc theo biên giới không có dân (trung bình từ 1 đến 26 người/km2); ở các tỉnh còn lại thì mật độ dân cư đông đúc hơn (Long An khoảng 290 người/km2, Đồng Tháp khoảng 400 người/km2)[5] nhưng cũng phân bố không đều, tập trung rất đông dọc các con sông lớn và những nơi đất cao, ruộng đất phì nhiêu.
Theo Điều 12 Hiệp định về Quy chế biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia ký ngày 20/7/1983, hai nước đã thỏa thuận mở 8 cửa khẩu đường bộ và đường sông:
Lệ Thanh (Việt Nam) – Đường số 19 – Andong Pech (Campuchia).[6]
Bu Prăng (Việt Nam) – Đường số 14 –Ô Reng (Campuchia)
Bo Nuê (Việt Nam) – Đường số 13 – Xnun (Campuchia).[7]
Xa Mát (Việt Nam) – Đường số 22B, số 7 – Trapeang Phlong (Campuchia).
Mộc Bài (Việt Nam) – Đường số 22A, số 1 – Bavet (Campuchia).
Tịnh Biên (Việt Nam) – Đường số 2 – Phnom Den – Takeo (Campuchia).
Xà Xía (Việt Nam) – Đường số 17 – Lốc – Kampot (Campuchia).[8]
Vĩnh Xương – Thường Phước (Việt Nam) – sông Cửu Long – sông Tiền, sông Mê Công – Kaam Samnor – Cốcrôca (Campuchia).
Để đáp ứng nhu cầu giao lưu, hợp tác qua biên giới, hệ thống cửa khẩu trên biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia đến nay đã được mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, qua khảo sát thực tế, trên toàn tuyến có 41 cặp cửa khẩu (10 cặp cửa khẩu quốc tế, 11 cặp cửa khẩu chính và 20 cặp cửa khẩu phụ) đang hoạt động. Ít hơn so với Quyết định số 1490/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc Quy hoạch hệ thống cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia đến năm 2020 do nhiều lý do, trong đó do công tác điều tra, nghiên cứu lập Quy hoạch chưa sát với thực tế, chưa đánh giá đúng tiềm năng và nhu cầu phát triển của từng địa phương, từng vùng; công tác triển khai Quy hoạch chưa đồng bộ do gặp khó khăn về kinh phí để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, trang thiết bị; kết nối giao thông đến các cửa khẩu gặp nhiều khó khăn; một số cửa khẩu phía Việt Nam có nhu cầu mở nhưng phía Campuchia không có nhu cầu mở và ngược lại.
Để khắc phục tình trạng trên, hai bên đã thành lập Nhóm công tác hỗn hợp về cửa khẩu biên giới đất liền Việt Nam – Campuchia để trao đổi việc phát triển hệ thống cửa khẩu biên giới giữa hai nước.
Nguồn: Ủy ban Biên giới quốc gia - Bộ Ngoại giao
[1] Số liệu chiều dài đường biên giới do trên bộ bản đồ UTM tỷ lệ 1/50.000 đính kèm Hiệp ước hoạch định năm 1985.
[2] Số liệu về chiều dài biên giới và cột mốc biên giới tạm thời lấy theo Hiệp ước hoạch định năm 1985 và Kế hoạch tổng thể công tác phân giới cắm mốc theo Hiệp ước hoạch định năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005.
[3] Số liệu các huyện, xã biên giới Việt Nam lấy theo Nghị định số 34/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 của Chính phủ về quy chế khu vực biên giới đất liền nước CHXHCN Việt Nam.
[4] Về mốc phụ/cọc dấu bổ sung, Việt Nam và Campuchia thống nhất cắm bổ sung tổng số 1733 cột mốc phụ, cọc dấu để làm rõ hơn hướng đi của đường biên giới trên thực địa ở những khu vực đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc (chưa tính ở các đoạn biên giới tồn đọng chưa được phân giới cắm mốc và các khu vực chưa hoàn thành hoán đổi đất theo mô hình MOU). Việt Nam chịu trách nhiệm cắm các cột mốc phụ/cọc dấu có số chẵn, Campuchia cắm các cột mốc phụ/cọc dấu có số lẻ.
[5] Cập nhật số liệu năm 2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường
[6] Nay là cửa khẩu quốc tế Lệ Thanh – Oyadav.
[7] Nay là cửa khẩu quốc tế Hoa Lư – Trapeang Sre.
[8] Nay là cửa khẩu quốc tế Hà Tiên – Prek Chak.
. . . . .